Nửa Thế Kỷ Một Dòng Sông
Trong bài thơ Giấc Mơ Nhỏ Của Tôi, có một đoạn tôi viết về sông Bến Hải:
Chào anh công nhân dệt từng tấm vải
Cho tôi làm con thoi nhỏ trên tay
Để tôi nối hai bờ sông Bến Hải
Nối lòng người vời vợi cách xa nhau.
Trong suốt 21 năm dài đầy máu và nước mắt, từ 1954 đến 1975, Bến Hải không phải là tên của một dòng sông, Hiền Lương không phải tên của một chiếc cầu nhưng là bức màn sắt ngăn đôi căn nhà dân tộc, môt vết dao cắt ngang lòng đất nước. Dù với ước mơ chân thành, được ôm ấp trong lòng từ khi còn bé cho đến bây giờ, mong được làm một con thoi nhân ái để nối hai bờ sông Bến Hải, tôi vẫn chưa một lần đặt chân lên chiếc cầu định mệnh này.
Nhớ lại những ngày còn là học sinh trung học, với đám bạn bè cùng lớp, thêu dệt ước mơ. Một ngày kia, khi đất nước không còn tiếng súng, chúng tôi sẽ đạp xe xuyên suốt ba miền. Chúng tôi sẽ bắt đầu từ Mũi Cà Mau, vùng đất cuối cùng của tổ quốc và đạp thẳng đến tận Ải Nam Quan.
Chúng tôi sẽ ghé thăm núi Mã Yên, Tụy Động, Chúc Động, nơi các tướng Lý Triện và Đinh Lễ đã từng tử chiến với đại quân của Vương Thông, Phương Chính, Mã Kỳ. Chúng tôi sẽ ghé thăm Thiên Trường, nơi Trần Bình Trọng mắng vào mặt kẻ thù trước khi bị chém. Đêm đêm nằm nghe tiếng súng vọng về bên kia sông Thu Bồn, lòng chợt đau khi nghĩ đến những người đang chết. Dù nhân danh bất cứ lý do gì, cái chết của một người Việt Nam vẫn là một điều đáng tiếc. Đất nước sẽ phải hết chiến tranh. Quê hương rồi phải có hòa bình. Dân tộc Việt Nam phải đi lên.
Những thôn làng tối tăm phải được thắp sáng bằng những nhà máy điện hiện đại. Ước mơ của tuổi học trò bao giờ cũng dễ thương và trong sáng như mối tình đầu của hai kẻ yêu nhau mà không hề lo nghĩ đến chuyện nợ nần, cơm áo ngày mai. Trong khao khát của những đứa bé lớn lên trong chiến tranh như đàn nai tơ khát nước, chẳng thể nào phát họa nổi bức tranh về ngày hòa bình rồi sẽ ra sao.
Chiến tranh cũng lớn nhanh cùng với tuổi đời chúng tôi. Khi bước vào đại học, cũng là lúc chúng tôi hiểu rằng nguyên nhân và kết quả của cuộc chiến không đơn giản như chúng tôi từng nghĩ. Nền hòa bình Việt Nam có thể sẽ không đẹp như một bức tranh vân thủy, có cánh đồng xanh, có suối nước trong, có đàn nai tơ quây quần bên nai mẹ. Viễn ảnh đen tối của một xã hội bị cai trị bởi một đảng duy nhất, một nền kinh tế tập trung, các tôn giáo được xem như là thuốc phiện, mọi quyền tư hữu sẽ bị tước đoạt, các sáng tác không được phép xuất bản sẽ trở thành phản động, dần dần hiện rõ ra.
Những hình ảnh và tài liệu về Tết Mậu Thân, cuộc cải cách ruộng đất tại miền Bắc, Nhân Văn Giai Phẩm, mùa xuân Prague, mùa thu Hungary, mùa đông Siberia, Công Xã Nhân Dân, nạn đói Trung Quốc, cuộc thanh trừng đẫm máu của Stalin v.v…mà chúng tôi đã đọc, bỗng dưng trở thành quan trọng.
Là những học trò chân thành của lịch sử Việt Nam, chúng tôi cảm nhận rằng, chỉ có sức mạnh dân tộc mới hy vọng cản ngăn nổi thảm họa diệt vong đang đổ xuống sinh mệnh Việt Nam, chỉ có ý chí của Mê Linh, Bạch Đằng, Chí Linh, Vạn Kiếp mới mong giúp dân tộc Việt Nam vượt qua sức càn quét của dòng tư tưởng ngoại lai đang xâm chiếm miền Nam. Nhưng sức mạnh đó đang tiềm ẩn nơi đâu trong buổi nhiễu nhương tang tóc của miền Nam.
Và giữa hố thẳm của hoài nghi ngăn cách này, ai sẽ là người dẫn dắt chúng tôi trên con đường gian nan tìm về lịch sử.
Nhìn quanh không một bóng người.
Thế hệ chúng tôi lớn lên sau hiệp định Geneve. Chúng tôi bước vào đời như những khán giả bước vào rạp hát khi vỡ thảm kịch Việt Nam đã mở màn từ nhiều năm trước.
Chúng tôi sờ soạng trong bóng đêm dày đặc để tìm một chỗ đứng, tìm một hướng đi, tìm một câu trả lời cho những cảnh máu đổ đầu rơi đang diễn ra trên sân khấu. Không có tiếng trả lời. Chung quanh chúng tôi chỉ có tiếng súng nổ vang và thây người đổ xuống. Chung quanh chúng tôi chỉ có máu và nước mắt.
Chúng tôi mò mẫm đi tìm cội nguồn dân tộc trong điêu tàn đổ nát của quê hương như những đứa con lạc mẹ. Chúng tôi gõ cửa mọi căn nhà, hỏi thăm từng thầy dạy học, kính viếng các Cha, đảnh lễ các Thầy. Nhưng tại mỗi nơi, mỗi người, dân tộc mang một vóc dáng khác nhau, một định nghĩa khác nhau và được hiểu một cách khác nhau. Chúng tôi có cảm tưởng dân tộc của Cha không phải là dân tộc của Thầy, dân tộc của những người sống nhờ vào chiến tranh không phải là dân tộc của người đang chịu đựng chiến tranh.
Mặc dù kiến thức về lịch sử còn nông cạn, xã hội chúng tôi lớn lên còn đầy bất công sai trái, sau những năm học hỏi, tìm tòi, chúng tôi hiểu được một điều vô cùng hệ trọng và căn bản, rằng để có hòa bình trước hết phải bảo vệ được miền Nam. Miền Nam là điểm tựa của niềm hy vọng dân tộc. ‘
Chúng tôi có thể không đồng ý với chính quyền nhiều điểm nhưng không phải vì thế mà ngoảnh mặt quay lưng. Chúng tôi có thể không đồng ý với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu nhiều điều ông nói, nhưng không thể không đồng ý với câu “Đất nước mất là mất tất cả.” Vâng, đối với đồng bào miền Nam, mất miền Nam là mất tất cả.
Buổi sáng khi Nguyễn Thành Trung ném hai trái bom xuống Dinh Độc Lập. Đứng trên hành lang đại học, chúng tôi âm thầm van vái cho bom đừng trúng nhằm ông Thiệu.
Ông Nguyễn Văn Thiệu phải sống. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu của nước Việt Nam Cộng Hòa phải sống. Trong hoàn cảnh nầy chẳng còn ai nữa. Mọi thay đổi chỉ gây thêm bất ổn mà thôi.
Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu dù có muôn vạn lỗi lầm, dù độc tài hay tham nhũng, đồng bào miền Nam cũng sẽ tha thứ hết, sẽ quên hết để cùng chiến đấu cho nền Cộng Hòa non trẻ và đáng thương của chúng ta còn tồn tại.
Đây không phải lúc để đổ thừa vì trời làm nên mưa bão nhưng là lúc cùng nhau tát nước. Tương tự, đây không phải là lúc để trách cứ Tổng Thống Thiệu hay Thủ Tướng Khiêm mà là lúc nắm lấy tay nhau, yêu thương nhau, chuyền cho nhau chút lửa ấm của tình người Việt Nam, đọc lớn cho nhau nghe từng trang sử hào hùng của dân tộc. Hai Bà Trưng, Trần Bình Trọng, Hoàng Diệu, Nguyễn Tri Phương, Lương Ngọc Quyến, Phạm Hồng Thái, Nguyễn Thị Giang và bao nhiêu tấm gương trung liệt khác như những vầng trăng muôn đời sáng soi trời đất Việt. Nếu con người chỉ có một lần chết thì đẹp nhất vẫn là được chết cho đất nước.
Người Pháp đã đến và đi. Người Mỹ đã đến và đang ra đi, nhưng miền Nam phải tồn tại. Tồn tại dù phải chịu đựng nhiều hy sinh. Ngoài Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, trong thời điểm nầy không còn ai đủ sức đương đầu với Cộng Sản. Cộng Sản hẳn nhiên biết điều đó. Họ chỉ mong Tổng Thống Thiệu ra đi. Một trong những điều kiện đàm phán do Cộng Sản đưa ra trong những ngày cuối tháng Tư năm 1975 là Tổng Thống Thiệu phải ra đi.
Thật ra, đó chỉ là trò bịp vì hơn ai hết họ biết rằng Tổng Thống Thiệu ra đi chắc chắn sẽ để lại một miền Nam hỗn loạn và tan nát về mọi mặt. Nhờ vậy họ sẽ dễ bề chiếm đoạt. Nhưng rồi niềm hy vọng mong manh cuối cùng của thế hệ chúng tôi cũng tan vỡ như những chiếc bong bóng nước trong cơn mưa trước lễ bàn giao Tổng Thống chiều 28 tháng Tư năm 1975. Tổng Thống Thiệu ra đi.
Tôi lặng người khi nghe đài BBC loan báo Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu vừa đặt chân đến phi trường Đài Bắc, chặng đầu tiên trên đường lưu vong của ông. Tổng thống Thiệu ra đi, không phải chỉ mang theo 16 tấn vàng như người đời đồn đãi. Điều đó, dù có thật chăng nữa, với chúng tôi cũng không quan trọng. Nhưng quan trọng ở chỗ, ông đã mang theo của tôi và bạn bè tôi chút niềm tin còn lại nơi các vị lãnh đạo miền Nam.
Khi đứng nhìn những chiếc trực thăng từng đợt cất cánh trên sân thượng của các cao ốc trong thành phố, cảnh các bộ trưởng, thứ trưởng chính phủ Việt Nam Cộng Hòa được đặc ơn di tản chen lấn nhau trước tòa đại sứ Mỹ, chúng tôi cảm thấy bơ vơ, bẽ bàng và giận dữ.
Bơ vơ khi nghĩ tới ngày mai, bẽ bàng khi nhớ lại những lời các chú bác vừa hứa với chúng tôi mấy ngày trước đó, và giận dữ trước sự phản bội của những người lãnh đạo quốc gia. Vàng bạc có thể tìm lại được, của cải có thể làm lại được nhưng niềm tin thì rất khó.
Giữa giờ phút gần như tuyệt vọng đó, giữa lúc tiếng kêu bi thảm của nhân dân miền Nam tưởng như đang vỡ tung cả thượng tầng khí quyển, tôi đã tìm thấy dân tộc mình. Dân tộc tôi là đoàn người vừa di tản từ ngoài Trung đang sống lay lắt dọc bờ biển Vũng Tàu; là những đứa bé đang bơ vơ trên đường phố Sài Gòn; là những người lính đang đứng chờ địch với những viên đạn cuối cùng bên này cầu Tân Thuận; là những chiến binh đang đếm những bước đau thương tủi nhục trở về quê quán chờ đợi gông xiềng tù tội; là những người đã chết trên những chuyến hải hành tuyệt vọng giữa biển Đông; là những anh hùng đã chọn cho mình cách chết vinh quang hơn là rơi vào tay Cộng Sản.
Và dân tộc tôi là giọt nước mắt của bà mẹ nhỏ xuống trong đêm 30 tháng Tư khi biết đứa con trai duy nhất của mình vừa hy sinh trong giờ phút cuối cùng của cuộc chiến Việt Nam.
Và với chúng tôi, những thanh niên tròn tuổi hai mươi, giấc mơ đạp xe xuyên suốt ba miền ôm ấp từ thời Trung Học cũng đã chết non ngay sau ngày 30 tháng 4 năm 1975. Thành phố, con đường, ngôi trường vẫn còn đó nhưng tất cả đã bị đổi thay tên. Ngày xưa, ánh trăng chảy vào tâm hồn tôi những dòng thơ yêu người và yêu đời. Sau 1975, nằm trong căn nhà không vách trên vùng Kinh Tế Mới, ánh trăng vàng như những vết dao đâm vào lòng tôi bao tủi buồn, đau xót. Trong 6 năm ở lại Sài Gòn, tôi sống trong tâm trạng chờ đợi một điều gì sắp xảy ra cho mình và cho đất nước.
Tôi đã sống như một người sống tạm trên quê hương cho đến ngày vượt biển ra đi.
Hai mươi chín năm qua, tôi đã có dịp đọc và nghe, tuy không hết, nhưng cũng khá nhiều hồi ký, sách vở, báo chí, diễn văn của các chú bác từng đóng vai trò lãnh đạo miền Nam đang lưu vong ở hải ngoại. Phần lớn, ngoài việc biện minh cho sự thất bại và việc bỏ đi sớm của mình, đã cố gắng giải thích lý do tại sao miền Nam, với một quân đội tinh nhuệ như thế, với những tướng lãnh cầm quân tài ba thao lược như thế, đã bị mất về tay Cộng Sản.
Lý do được nhiều tác giả viện dẫn cũng chẳng khác gì nhiều so với diễn văn cuối cùng của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã đọc trong đêm từ chức của ông 29 năm trước. Nguyên nhân chính vẫn là vì Mỹ đã ngưng viện trợ quân sự, đã bỏ rơi Việt Nam, đã gián tiếp dâng hiến miền Nam cho Cộng Sản.
Hẳn nhiên không ai phủ nhận sự buông tay của Mỹ là cơn gió trực tiếp mang đến sự sụp đổ nhanh chóng của miền Nam. Tuy nhiên, nếu tôi dựa vào lập luận của các chú bác, để hỏi ngược lại quý chú bác rằng nếu Hoa Kỳ tiếp tục viện trợ cho Việt Nam Cộng Hòa thì phải chăng miền Nam sẽ không bao giờ mất? Câu trả lời sẽ không ngắn gọn và dễ dàng.
Về mặt khách quan, Việt Nam Cộng Hòa có một quân lực hùng hậu, tinh nhuệ nhất Đông Nam Á đã được chứng minh qua những chiến tích lẫy lừng trong việc bảo vệ An Lộc, tái chiếm Cổ Thành, trấn giữ Bồng Sơn, Thường Đức v.v…Vâng, nhưng một đạo quân, dù tinh nhuệ bao nhiêu, các tướng lãnh dù tài ba thao lược bao nhiêu, trong một cuộc chiến chỉ nhằm mục đích tự vệ và kéo dài quá lâu, cũng không thể thắng một đạo quân xâm lược, cuồng tín và không từ chối bất cứ một phương tiện gì để đạt được mục đích thôn tính miền Nam. Những ai còn ở lại Sài Gòn sau 1975 chắc đã có nhiều cơ hội để thấy được sự khác nhau giữa hai người lính.
Hãy xem hình ảnh một người lính miền Nam đầy nhân ái bao dung và rất là con người như nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn nhắn gởi mấy anh du kích:
ta vốn hiền khô, ta là lính cậu
đi hành quân rượu đế vẫn mang theo
mang trong đầu những ý nghĩ trong veo
xem chiến cuộc như tai trời ách nước
ta bắn trúng ngươi vì ngươi bạc phước
vì căn phần ngươi xui khiến đó thôi.
(Chiến Tranh và Tôi, thơ Nguyễn Bắc Sơn)
Hay nhà thơ Trần Hoài Thư đối xử với tù binh CS:
Trong túi ta một gói thuốc chuồn
Bắt tù binh mời điếu thuốc thơm
Ðể thấy miền Nam lính hiền ghê gớm
Mấy năm trời giày da bẹt gót
Ngày lãnh lương về chợ dưỡng quân.
(Ta Lính Miền Nam, Thơ Trần Hoài Thư)
Những hình ảnh dễ thương đó tương phản biết bao nhiêu khi so với thơ Tố Hữu dùng để đầu độc những người lính Cộng Sản:
Chúng ta đang ở trên đầu chúng nó
Đại bác ta sau rèm tre ngảnh cổ
Trông xuống khoanh đồi nọ
Ngon như một đĩa thịt bò tươi
Ở dưới kia chúng nó đang cười
Cười đi nhé các con ơi rồi chết…
(Bắn Đi, thơ Tố Hữu)
Khi ví những người bên kia chiến tuyến, dù người đó là Pháp, Mỹ hay đồng bào cùng máu mủ với mình, như một đĩa thịt bò tươi, quả thật trong người Tố Hữu đã không còn một chút gì để gọi là nhân tính.
Người lính Cộng Sản bị mê hoặc bởi một ý thức hệ vong bản khủng khiếp đến nỗi chỉ biết hận thù, đấu tranh, giết chóc. Suốt đời họ được huấn luyện để nói dối, dối có hệ thống, dối một cách hồn nhiên và dối trong cả những chuyện hiển nhiên nhất. Nhiều người nghiên cứu cuộc chiến Việt Nam cho đến nay vẫn thắc mắc rằng, làm thế nào một miền Nam hùng mạnh lại dễ dàng mất về tay những anh chàng khờ khạo từ trong rừng xuất hiện.
Đơn giản bởi vì nếu các anh không khờ khạo thì đã không chiếm được miền Nam. Nếu các anh biết thế nào là ý nghĩa của hai chữ chọn lựa và có quyền chọn lựa một cuộc đời để sống, thì các anh không dại gì chọn để chết. Thanh niên miền Bắc bị đầu độc rằng đồng bào miền Nam đang đói khát và ngày đêm chờ đợi họ vào để “giải phóng khỏi xích xiềng đế quốc.” Thế nhưng thực tế đã trái ngược. Đồng bào miền Nam đã bỏ cả làng mạc, ruộng vườn, nhà cửa, lưng cõng mẹ già, tay bế con thơ để tìm đường vào Nam lánh nạn.
Cuối thế kỷ 20, nhưng thanh niên miền Bắc vẫn còn được dạy để tin rằng “Trăng Trung Quốc tròn hơn trăng nước Mỹ và đồng hồ Liên-xô tốt hơn đồng hồ Thụy Sỹ.” Một đoạn trong bài thơ Ðịa Ngục Không Cửa Sổ của Việt Phương, thư ký riêng của Phạm Văn Đồng viết tại Hà Nội năm 1972 sau một chuyến được xuất ngoại với phái đoàn ngoại giao Cộng Sản:
Tôi đã đến Paris phồn hoa tráng lệ
Ði dưới trời tuyết lạnh
Tôi ngẩn ngơ từng góc phố con đường
Sao tôi thấy cảnh thanh bình xa lạ
Từng đàn chim quanh quẩn dưới chân người
Cuộc sống nơi đây tôi nào có biết
Nhưng nhận ra ngay qua những nụ cười
Ở nơi đó tôi thấy rất nhiều khác lạ
So với điều người ta dạy cho tôi
Và từ đó hồn tôi bỗng “CỬA MỞ”
Tôi khóc thầm cho dân tộc của tôi
Hỡi Nhân Loại! Hãy giùm tôi mở cửa
Bao nhiêu người đang ngu muội lầm than
Trong địa ngục khổng lồ không cửa sổ.
(Ðịa Ngục Không Cửa Sổ,Việt Phương)
Thật vậy, từ sau 1954, miền Bắc Việt Nam chìm trong bóng đêm dài không một ánh trăng sao. Nửa đất nước là một địa ngục lầm than không cửa sổ.
Theo hãng thông tấn AP, ngày 4 tháng 4 năm 1995, nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam đã ước lượng số người Việt Nam, trong đó có quân đội hai bên, đã chết trong 21 năm chiến tranh là 5 triệu 1 trăm ngàn người. Con số đó đại diện cho 12 phần trăm của toàn bộ dân số Việt Nam trung bình trong giai đoạn 1954-1975. Con số thật sự có thể còn cao hơn nữa vì nhà cầm quyền Hà Nội trong suốt thời kỳ chiến tranh chưa một lần công bố tổn thất về phía họ.
Dù sai số bao nhiêu, năm triệu một trăm ngàn người chết và mất tích quả thật quá lớn trong một cuộc chiến địa phương trên một vùng đất nhỏ hẹp về địa lý và về dân số như Việt Nam. Câu nói “Miền Nam trong trái tim tôi” của Hồ Chí Minh đã phải đổi bằng 5 triệu mạng sống của nhân dân Việt Nam vô tội ở hai miền. Số lượng người Việt đã chết trong chiến tranh Việt Nam còn cao hơn cả tổng số 4 triệu 6 trăm ngàn người Do Thái bị giết trong thế chiến thứ hai. Đó là chưa kể hàng trăm ngàn thương binh đang đếm những ngày tàn trên đường phố Hải Phòng, Hà Nội.
Đó là chưa kể tội ác của giới lãnh đạo Cộng Sản đối với hàng trăm ngàn sĩ quan và viên chức Việt Nam Cộng Hòa bị đày ải trong những trại tập trung dã man rải rác khắp ba miền. Đó là chưa kể số phận của một trăm năm chục ngàn “cô gái vót chông tải đạn” đã đánh mất tuổi thanh xuân trong rừng sâu nước độc Trường Sơn. Một đoạn trong bài thơ viết về nỗi đau của một người đàn bà hai đời làm mẹ, chăm sóc cho đứa con gái đã gởi lại Trường Sơn đôi chân ngà ngọc:
Con trở về sau cuộc chiến tranh
Không chàng trai nào đưa tiễn
Không còn nữa lời thề non hẹn biển
Mẹ là người duy nhứt đón đưa con
Ừ, thì con về với mẹ
Ngôi nhà ta bao năm rồi đơn lẻ…
Mẹ hái hoa bưởi về gội tóc cho con đây
Ôi mái tóc xanh dài dưới bàn tay nhăn của mẹ
Vòm ngực con vẫn căng tràn sức trẻ
Mẹ run lên khi chạm vào đôi chân ngà ngọc của con
Gửi lại chiến trường
Sự im lặng còn đau đớn hơn ngàn lần tiếng nấc
Con ơi, làm sao mẹ quen được nỗi mất mát này ! …
(Trầm Hương, Hai Đời Làm Mẹ)
Dù bên này hay bên kia Bến Hải, nỗi đau của bà mẹ Việt Nam nào cũng giống như nhau. Bao nhiêu máu Việt Nam đã đổ? Bao nhiêu xương Việt Nam đã rơi? Bao nhiêu thế hệ Việt Nam đã bị ném vào lò lửa của bạo tàn và tham vọng? Bao nhiêu tài nguyên đã bị tàn phá? Con số thật sự sẽ không bao giờ được biết.
Nỗi khổ đau của dân tộc Việt Nam sẽ không một ngôn ngữ nào tả được. Giới lãnh đạo Cộng Sản mỗi khi cất tiếng là nói về tổ quốc, nói về nhân dân nhưng họ đã làm gì cho đất nước Việt Nam ngoài tội ác diệt chủng đối với nhân dân Việt Nam? Về mặt chủ quan, tại miền Nam trong suốt thời gian 21 năm từ ngày đất nước chia đôi, thành thật mà nói, chính nghĩa quốc gia dân tộc chưa bao giờ được xiển dương đúng mức. Miền Nam có chính nghĩa và chiến đấu dưới ngọn cờ bảo vệ tự do nhưng các nhà lãnh đạo miền Nam không trang bị cho họ và nhân dân miền Nam một ý thức dân tộc có hệ thống khả dĩ có thể đương đầu với hệ lý luận Cộng Sản. Ý thức dân tộc là điều kiện quyết định trong một cuộc chiến tranh ý thức hệ. Ý thức dân tộc là niềm tin của mỗi người dân vào truyền thống anh hùng, bất khuất, độc lập, khai phóng, tự chủ và các giá trị cao đẹp khác đã hun đúc nên nền văn hóa Việt Nam. Ý thức dân tộc giúp các nhà lãnh đạo chọn lựa các chính sách đúng, phù hợp với nhu cầu căn bản của người dân cũng như phù hợp với đà tiến hóa của nhân loại. Ý thức dân tộc giúp chúng ta thấy được những nhu cầu bức thiết ngay trước mắt và cả hướng đi lâu dài của đất nước trong thời đại mới, kỷ nguyên mới. Ý thức dân tộc giúp chúng ta hy sinh mà không cầu tư lợi và giữ được niềm tin ngay trong lúc cô đơn và đau đớn nhất. Ý thức dân tộc giúp chúng ta có được đức tính bao dung, bỏ qua được những bất đồng nhỏ nhặt giữa những người cùng chiến tuyến với nhau. Quý chú bác lãnh đạo miền Nam hiện đang lưu vong ở hải ngoại, trong giờ phút tĩnh lặng và chân thành nhất của tâm hồn, xin tự hỏi, trong thời kỳ còn nắm quyền hạn trong tay, quý chú bác đã xây dựng cho chính mình và các thế hệ lãnh đạo Việt Nam tương lai một hệ ý thức quốc gia dân tộc nào chưa? Nếu câu trả lời là chưa thì khoan đổ thừa cho Henry Kissinger, Richard Nixon hay Gerald Ford đã làm chúng ta mất nước, và nếu câu trả lời là chưa thì cũng khoan trách tại sao Mỹ không viện trợ khẩn cấp 300 triệu Mỹ kim, mà cho dù 3 tỷ Mỹ kim đi nữa, thì số phận miền Nam, cuối cùng, cũng không khác bao nhiêu. Vẫn biết số phận của một nước nhược tiểu chẳng khác gì số phận của trái banh, sân cỏ trong trận cầu quốc tế, dù ai đi nữa cũng khó xoay ngược được thế cờ. Tuy nhiên, như người xưa đã nói “Tận nhân lực tri thiên mệnh”, ít ra, quý chú bác cũng nên tận tụy hy sinh cho đất nước của chính mình trước khi đổ thừa cho ai khác. Một số không ít các nhà lãnh đạo miền Nam, từng là sĩ quan trong quân đội Pháp hay đã phục vụ trong chính quyền thuộc địa Pháp. Mặc cảm hợp tác với Pháp đã làm cho họ xa cách, và trong nhiều trường hợp đã trở thành đối nghịch với cảm tình vốn có của dân chúng đối với cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp của dân tộc Việt Nam. Thái độ “có tật giật mình” đó ảnh hưởng tai hại đến các chính sách đối với văn nghệ sĩ và các tác phẩm yêu nước được sáng tác trước 1954, ảnh hưởng tiêu cực trong phương pháp tuyên truyền, địch vận và cả trong khả năng kích thích lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam trong trận chiến một mất một còn với Cộng Sản. Một bản nhạc “Tiếng Hát Sông Lô” của Phạm Duy, một bài thơ “Bên Kia Sông Đuống” của Hoàng Cầm đã làm chú bác khó chịu rồi thì làm sao tạo được niềm tin trong các thế hệ thanh niên miền Nam. Đọc lại lịch sử, ngay từ hiệp ước Giáp Tuất 1847, thực dân Pháp đã bắt đầu theo đuổi chính sách chia ba miền để dễ bề cai trị. Chính sách đó, không tránh khỏi, đã thu hút một số người Việt tại miền Nam theo Pháp hay hoạt động trong khuôn khổ luật định của Pháp. Nếu thực dân Pháp, vì một lý do nào khác đã theo đuổi chính sách “Bắc kỳ tự trị”, thì người Việt miền Bắc cũng sống trong một hoàn cảnh chính trị tương tự như thế mà thôi. Mặc dù lớn lên trong một hoàn cảnh lịch sử đặc biệt của miền Nam, các nhà cách mạng miền Nam đã thể hiện lòng yêu nước theo những phương cách thích hợp với hoàn cảnh chính trị tại miền Nam và điều kiện trưởng thành của họ. Nhiều nhà yêu nước đã tranh đấu công khai, hợp pháp, và tìm cách thay đổi vận mệnh đất nước bằng cuộc vận động dân chủ ôn hòa, tuy có thể chậm hơn nhưng bền vững. Các tư tưởng dân chủ Châu Âu của Jean-Jacques Rousseau, Montesquieu cũng đã qua cánh cửa tâm hồn khai phóng của Phan Chu Trinh, Nguyễn An Ninh mà du nhập vào Việt Nam. Và nhờ đó, miền Nam đã trở thành chiếc nôi của nền dân chủ Việt Nam thời hiện đại. Thật cảm động biết bao khi đọc lời kể của nhà cách mạng Nguyễn An Ninh về chuyện đi Pháp của ông: “Trước khi tôi rời khỏi xứ để sang đây du học, cha tôi đã dẫn tôi lên lăng ông Lê Văn Duyệt và bắt tôi phải thề trước mộ của Ngài Tả Quân rằng: Tôi không bao giờ chạy theo danh lợi sau khi đã thành tài, mà phải đem tài năng đã học được phục vụ cho công cuộc giải phóng giống nòi thoát khỏi ách nô lệ của Pháp. Tôi nguyện đeo đuổi đến cùng chí hướng của mình dù phải hy sinh cả cuộc đời.” (Theo Lê Tùng Minh trong biên khảo “Nguyễn An Ninh, Nhà Cách Mạng Dân Chủ Tiền Phong Trong Lịch Sử Hiện Đại Việt Nam”). Không ai phủ nhận lòng yêu nước của các nhà cách mạng Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Nguyễn Thái Học chủ trương cứng rắn đối với thực dân Pháp, nhưng để nhìn xa vào tương lai dân tộc, thì phương cách đấu tranh ôn hòa, trực diện, tiết kiệm máu xương của những nhà tư tưởng Duy Tân như Phan Chu Trinh, Nguyễn An Ninh thích hợp với xu hướng phát triển của thời đại hơn. Năm 1925, chàng thanh niên 25 tuổi Nguyễn An Ninh đã nói những lời như tiên tri: “Đối với nước Annam ngày nay (năm 1925), giành lại độc lập là quá sớm. Vì chúng ta chưa đủ sức gìn giữ độc lập đó, và sẽ mất nó ngay hôm sau ngày chiến thắng. Chúng ta chưa có đầy đủ ý thức kỷ luật và ý thức khoa học cần thiết đã tạo thành sức mạnh cần thiết cho các dân tộc văn minh, hiện đại.” (Theo Lê Tùng Minh, đã dẫn ở trên). Các nhà lãnh đạo miền Nam, thay vì nối tiếp sự nghiệp của Phan Chu Trinh, Nguyễn An Ninh, Phan Văn Hùm v.v.. vận dụng sức mạnh dân tộc cùng lúc với mở mang dân trí, can đảm giải thích hoàn cảnh khó khăn của cá nhân họ và thể hiện lòng yêu nước bằng các chương trình canh tân đất nước cụ thể, đã xô đẩy nhau vào những cuộc tranh quyền đoạt lợi triền miên. Trong khi giới lãnh đạo Cộng Sản đồng hóa cuộc cuộc chiến tranh chống Mỹ, là bước nối tiếp tự nhiên của cuộc chiến tranh chống Pháp, thì các nhà lãnh đạo miền Nam, vì lý do cá nhân hay vì thiếu kiến thức chính trị, không thể chứng minh đó là hai cuộc chiến hoàn toàn khác biệt về mục đích, chẳng những không liên hệ gì nhau mà còn mâu thuẫn nhau. Cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp là cuộc chiến đầy chính nghĩa của toàn dân và cuộc chiến Việt Nam sau 1954 là chiến tranh ý thức hệ xâm lược nhằm xích hóa Việt Nam. Đảng Cộng Sản như loài dây chùm gởi độc hại đang hút dần chất nhựa nguyên trên cây cổ thụ bốn ngàn năm Việt Nam. Do đó, cơ sở lý luận quyết định và cốt tủy để thắng được Cộng Sản là tách họ ra khỏi dân tộc và chứng minh tính mâu thuẫn, tính đối kháng, tính phản khoa học trong khẩu hiệu “Dân tộc và Chủ Nghĩa Xã Hội” mà họ cho là mục tiêu Việt Nam đang hướng tới. Nửa thế kỷ, một dòng sông. Năm mươi năm, một bài học đầy xương máu. Vận mệnh dân tộc đã đặt trên vai quý chú bác những trọng trách quá nặng nề so với khả năng gánh vác của quý chú bác. Quý chú bác đã đi qua một chặng đường dài, dù thành công hay thất bại cũng đã là lịch sử. Kinh nghiệm của quý chú bác sẽ là những bài học cần thiết cho các thế hệ mai sau. Những điều quý chú bác viết, trong chân thành và trân trọng, sẽ là những tài liệu lịch sử vô cùng quý giá. Những chiếc lá vàng sẽ rụng đi nhưng chồi xanh sẽ mọc. Tuổi trẻ Việt Nam học lịch sử không phải để rồi trách móc các thế hệ ông cha nhưng học để làm lịch sử, để tránh những vết xe đã một thời làm nghiêng đổ non sông, và quan trọng nhất, để biết giữ gìn văn hóa Việt Nam. Nhà cách mạng Nguyễn An Ninh đã nói trong buổi diễn thuyết đầu tiên của ông tại Sài Gòn năm 1923: “Dân tộc nào để cho nền văn hóa ngoại bang ngự trị thì không thể độc lập thật sự vì văn hóa là tâm hồn của dân tộc.” Lời nói của nhà cách mạng Nguyễn An Ninh 80 năm trước đến hôm nay vẫn còn là tiếng kêu trầm thống. Năm mươi năm qua, nền trời văn hóa Việt Nam đã và đang bị che khuất bởi những đám mây đen, từ Nho Giáo lạc hậu đến Thực Dân bóc lột và hôm nay Cộng Sản độc tài. Câu nói của chàng thanh niên Việt Nam 23 tuổi Nguyễn An Ninh, vì thế, xứng đáng là kim chỉ nam cho thế hệ trẻ Việt Nam ngày nay. Câu ngạn ngữ Đông phương nhưng rất phổ biến ở Tây phương: “Đừng nguyền rủa bóng tối mà hãy thắp lên ngọn nến” chưa bao giờ ý nghĩa hơn hôm nay. Việt Nam sẽ có tự do và no ấm. Đêm dài độc tài Cộng Sản sẽ tan đi trong bình minh dân chủ. Vâng. Nhưng để đạt được các mục tiêu đó, trước hết, mỗi người Việt, dù ở đâu, hãy thắp lên trong lòng mình ngọn nến được làm bằng chất liệu thuần túy Việt Nam. Đừng đổ thừa ai và cũng không nên hoàn toàn trông cậy vào ai khác để mang cơm no áo ấm đến cho dân tộc mình. Nhà cách mạng Phan Chu Trinh đã phát biểu khi Thống Đốc Pháp thẩm vấn ông tại Côn Đảo 1908: “Người nước Nam chui núp dưới chính thể chuyên chế trên ngàn năm, chưa có tư cách quốc dân độc lập, dầu có nhờ cậy sức nước ngoài thì chỉ diễn cái trò “dịch chủ tái nô” không có ích gì.” (Theo Vọng Đông, Danh Nhân Cách Mạng Việt Nam). Năm mươi năm là một quãng đường dài. Chúng ta đã hơn một lần trễ hẹn với non sông, nhưng không phải vì thế mà không còn cơ hội nào khác. Cơ hội vẫn còn đó nếu chúng ta biết đoàn kết, thấy được hướng đi chung của dân tộc và thời đại. Chúng ta có nhiều quá khứ nhưng đất nước chỉ có một tương lai, đó là tương lai tự do, dân chủ, nhân bản và khai phóng cho những ai, sau những điêu tàn đổ vỡ, còn biết nhận ra nhau, còn biết yêu thương mảnh đất thiêng liêng, vinh quang và thống khổ Việt Nam.
Trần Trung Đạo
7 tháng 11, 2004